Mua xe cần lưu ý bên bán xe phải có hai vợ chồng ký tên
Mua xe cần lưu ý bên bán xe phải có hai vợ chồng ký tên
Nhu cầu mua xe cũ hiện nay rất phổ biến. Với ưu điểm giá thành rẻ phù hợp túi tiền, nhanh chóng có phương tiện đi lại. Tuy nhiên, việc mua xe cũ cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Rủi ro về chất lượng xe không đảm bảo, khó tìm ra xe tốt, bị hớ giá khi mua hoặc gặp các rủi ro về pháp lý sang tên, đổi chủ. Không ít người rơi vào hoàn cảnh không thể làm thủ tục sang tên xe vì lý do bên bán thiếu chữ ký của vợ hoặc chồng hoặc thiếu giấy tờ chứng minh độc thân.
Với sự phát triển nhanh chóng của các sàn thương mại điện tử và thói quen di chuyển bằng xe máy của người Việt Nam. Do đó, nhu cầu mua bán trao đổi xe máy rất phổ biến. Bạn có thể dễ dàng tìm kiếm một chiếc xe máy cũ tại các sàn thương mại điện tử như Chợ tốt, các nhóm giao lưu mua bán xe trên các nền tảng mạng xã hội hoặc thông qua các cửa hàng xe máy cũ, tiệm cầm đồ. Trong khi đó, nhiều người lại có suy nghĩ chủ quan, chỉ chú ý đến việc kiểm tra chất lượng xe, chi số tiền hàng chục triệu đồng mua xe nhưng bỏ qua vấn đề kiểm tra pháp lý. Dẫn đến không ít người rơi vào trường hợp không thể làm thủ tục sang tên xe vì lý do bên bán thiếu vợ hoặc chồng ký tên trên hợp đồng hoặc không có giấy tờ chứng minh độc thân.
Xe máy, là tài sản không quá lớn nếu so với đất đai hay nhà cửa. Tuy nhiên, theo quy định về tải sản chung thì tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của hai vợ chồng. Kể cả xe máy, dù trên giấy chứng nhận đăng ký xe, cà vẹt xe chỉ thể hiện tên của một người nhưng nếu xe máy đó được mua và đăng ký trong thời kỳ hôn nhân thì đó vẫn được xem là tài sản chung[1]. Lúc này khi bán xe, cần phải có chữ ký của cả 2 vợ chồng trên hợp đồng bán xe.
Mặc dù quy định hiện nay, khi mua bán xe hai bên phải lập hợp đồng và công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng[2]. Tại đây theo quy định, các tổ chức hành nghề công chứng phải xác minh, kiểm tra về chủ sở hữu của chiếc xe, xác định chiếc xe là tài sản chung hoặc tài sản riêng. Bên bán phải xuất trình với tổ chức hành nghề công chứng về giấy tờ chứng minh độc thân thời điểm mua xe, hoặc cần yêu cầu cả vợ và chồng ký tên trên hợp đồng nếu xe mua trong thời kỳ hôn nhân[3]. Nhưng có không ít trường hợp, tổ chức hành nghề công chứng tiếp tay hoặc bằng một cách nào đó bên bán vẫn ký tên một người trên hợp đồng mà không cần đến người vợ hoặc chồng mặc cho đây là tài sản chung. Những trường hợp này thường xảy ra khi vợ chồng là chủ sở hữu chiếc xe đã ly thân hoặc đã mất. Khi ly thân hoặc vợ, chồng có người mất, muốn bán xe cần phải hoàn thành thủ tục ly hôn hoặc thừa kế mới có thể bán xe. Nhiều người lo ngại thủ tục phức tạp nên đã tìm cách lách luật và ký hợp đồng công chứng với bên mua để nhanh chóng bán được xe.
Lúc này, bên bán sẽ rơi vào tình thế rủi ro pháp lý. Có hợp đồng mua bán xe công chứng nhưng sẽ bị cơ quan đăng ký xe từ chối sang tên xe vì thiếu giấy tờ chứng minh độc thân hoặc chữ ký của vợ hoặc chồng bên bán. Để có thể sang tên xe, bên mua sẽ phải tìm và liên hệ bên bán để bổ sung giấy tờ hoặc chữ ký. Nhưng những trường hợp này sẽ rất khó và bên mua sẽ phải ngậm ngùi sử dụng chiếc xe không thể sang tên.
Do đó, khi mua xe cũ. Ngoài vấn đề chất lượng xe bạn cần lưu ý đến vấn đề pháp lý chủ xe. Trước khi đặt bút ký hợp đồng bạn cần yêu cầu các văn phòng công chứng kiểm tra kỹ vấn đề chủ sở hữu. Nếu bên bán chỉ có một người ký bạn cần yêu cầu bên bán xuất trình giấy tờ chứng minh độc thân thời điểm mua xe, đăng ký xe. Trường hợp bên bán có kết hôn khi mua xe, đăng ký xe, bạn cần yêu cầu bên phải có cả vợ và chồng ký tên trên hợp đồng mua bán xe.
Trên đây là nội dung tư vấn về “Mua xe cần lưu ý bên bán xe phải có hai vợ chồng ký tên”
Nếu bạn cảm thấy bài viết hữu ích thì Bạn cùng chúng tôi lan tỏa tri thức cho Cộng đồng bằng cách nhắn “Chia sẻ” bài viết này
Luật Nghiệp Thành cảm ơn các bạn đã xem, chia sẻ và mong nhận được phản hồi, góp ý bổ sung.
Biên tập: Lê Tiến Thành
Người hướng dẫn: Luật sư Thuận
[1] Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
[2] Điều 11.2 (b) Thông tư 24/2023/TT-BCA
[3] Điều 40 Luật Công chứng năm 2014