Phân biệt Hợp đồng lao động và hợp đồng dịch vụ (khoán việc, cộng tác viên…)
Trong thực tế hiện nay rất nhiều chủ doanh nghiệp (kể cả nhân viên pháp chế, kế toán, phụ trách nhân sự…) đang phân vân, lo lắng khi ký hợp đồng “làm việc” với cá nhân thì loại hợp đồng nào phải tham gia BHXH, BHYT, BHTN, KPCĐ, nộp thuế TNCN theo lũy tiến hay mức 10%… để thực hiện đúng quy định Pháp luật hiện hành.
Để xác định được một cá nhân làm việc tại công ty sẽ ký HĐLĐ nào thì phải xét về bản chất của công việc để làm cơ sở lựa chọn ký kết cho phù hợp. Phần cốt lõi của 1 hợp đồng là nội dung công việc mà ý chí 2 bên mong muốn. Cho nên để hiểu rõ nội dung chính của hợp đồng chúng ta hãy tạm thời loại bỏ trong suy nghĩ các chi tiết như tiêu đề của hợp đồng (HĐLĐ, HĐDV, HĐ khoán việc, cộng tác viên, hợp tác…), thời hạn hợp đồng, thanh toán bằng TM hay CK, thuế TNCN, BHXH, BHYT…. sẽ dễ làm chúng ta rối trí .
Để phân biệt được đâu là HĐLĐ, HĐDV thì chúng ta đứng về 1 bên chẳng hạn là chủ công ty (gọi tắt là A) để bắt đầu tìm ra sự kiện, sự kiện ở đây là nội dung bên trong của thỏa thuận hợp đồng. Khi A ký HĐ với cá nhân làm việc (gọi tắt là Y) thì A có mong muốn Y đến công ty làm việc theo ngày làm việc hay ca sản xuất thông thường tại công ty; có được nghỉ nghỉ ngơi giữa ngày/ca làm việc, nghỉ cuối tuần, nghỉ phép, nghỉ lễ theo quy định chung của công ty hay không? Làm công việc chuyên môn theo 1 thời hạn nhất định, thu nhập được trả theo định kỳ tháng/tuần làm việc hay theo 1 mức cơ bản còn lại là khoán năng suất.
Từ đó ta đối chiếu thấy nếu hợp đồng giữa A và Y ký mà theo đó các thỏa thuận chính trong hợp đồng theo các quy định được nêu trong bộ luật lao động thì đó sẽ là HĐLĐ.Còn HĐDV công việc mà A thuê Y thực hiện thường kết thúc trong 1 thời hạn nhất định, ít kéo dài, thời gian, địa điểm, làm việc thường tự do, thù lao thường được trả theo gói gọn giao việc, tính theo sản phẩm, cách thức trả là tạm ứng và tất toán khi xong việc. Vì vậy đa phần các hợp đồng có tên gọi như HĐ khoán việc, cộng tác viên đều là HĐDV.
HĐLĐ thì phải thực hiện tuân theo Bộ Luật LĐ, BHXH, BHYT, BHTN và thuế TNCN thường tính theo lũy tiến từng phần.
Còn HĐDV thì được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự, thuế TNCN nếu phải nộp thường theo tỉ lệ 10%.
Ta có thể lập bảng so sánh như sau:
HĐLĐ | Hợp đồng dịch vụ | |
Bản chất | Là sự thoả thuận của NSDLĐ và NLĐ về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. | Là hợp đồng cung ứng dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi. |
Thời hạn | Có 3 loại HĐLĐ – Không xác định thời hạn – Xác định thời hạn từ 12-36 tháng – Mùa vụ hoặc dưới 12 tháng | Tùy vào thỏa thuận giữa hai bên |
Lương | Trả lương định kỳ | Trả theo giá trị hợp đồng khi hoàn thành xong công việc |
Chế độ | Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên bắt buộc phải tham gia BHXH, BHYT, BHTN Được nghỉ phép năm, nghỉ lễ, hưởng lương tăng ca… | Không phải tham gia BHXH, BHYT, BHTN Có thể phải làm cả ngày lễ, ban đêm …để hoàn thành xong công việc theo như thỏa thuận. |
Thuế TNCN | Thường tính theo biểu lũy tiến từng phần | Thường theo tỉ lệ 10% |
Chấm dứt hợp đồng | NLĐ hoặc NSDLĐ phải báo trước 1 khoảng thời gian tùy theo loại HĐLĐ đã ký kết | Hai bên thực hiện thỏa thuận chấm dứt, thanh lý hợp đồng |
Luật điều chỉnh | Bộ luật Lao động, Luật BHXH, Luật Công đoàn… | Bộ luật Dân sự, luật thương mại |
Để bạn hiểu thêm về các nội dung mà Luật Nghiệp Thành phân tích ở trên, Luật Nghiệp Thành sẽ đưa ra một tình huống cụ thể mà Luật Nghiệp Thành đã tư vấn cho khách hàng như sau:
“Em làm HĐLĐ cho Công nhân sơn sản phẩm cơ khí (SPCK) cũng giống như công nhân thời vụ bên em làm việc, em đăng ký MST cá nhân cho họ. Thời gian thực hiện công việc dự kiến khoảng 5 tháng và khi nào có việc thì phụ trách xưởng sẽ thông báo cho người thợ sơn đến làm, làm được bao nhiêu thì hưởng bấy nhiêu, không bắt buộc phải đến công ty làm việc theo đúng giờ giấc quy định làm việc hàng ngày. Vì công nhân làm bên em cũng là thời vụ em vẫn trả lương bình thường. Vậy em phải làm như thế nào để tốt nhất cho công ty?”
Qua trao đổi trực tiếp với Cty A, Luật Nghiệp Thành đã thấy rõ được bản chất của vấn đề để xác định HĐ của công nhân sơn SPCK ký với công ty A là loại hợp đồng nào. Người trực tiếp sơn SPCK không phải là lao động làm việc thường xuyên tại Cty A mà đang làm cho 1 cá nhân nhận dịch vụ nhưng không có đăng ký kinh doanh. Nơi làm việc là xưởng sản xuất của công ty A. Thời gian thực hiện công việc dự kiến khoảng 5 tháng và khi nào có việc thì phụ trách xưởng sẽ thông báo cho người thợ sơn đến làm, làm được bao nhiêu thì hưởng bấy nhiêu, không bắt buộc phải đến công ty làm việc theo đúng giờ giấc quy định làm việc hàng ngày. Như vậy, người thợ sơn làm việc không theo quy định chung về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi; không được nghỉ phép năm, nghỉ ngày lễ, hưởng lương làm thêm giờ…dẫn đến không được điều chỉnh bởi luật lao động nên không phải là hợp đồng lao động mà là loại hợp động dịch vụ được điều chỉnh bởi bộ luật dân sự.
Như đã chứng minh ở trên, hợp đồng mà cty A ký với người thợ sơn là loại hợp đồng dịch vụ, cho nên người thợ sơn là bên công ứng dịch vụ, không phải là người lao động nên không áp dụng luật BHXH, BHYT, BHTN trong trường hợp này. Vậy công ty A không phải nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người thợ sơn. Nhưng, vì là HĐ dịch vụ nên thu nhập của người thợ sơn là thu nhập chịu thuế TNCN cụ thể:
Với mức chi trả thu nhập từ 2.000.000 đồng /lần trở lên đối với cá nhân không ký HĐLĐ thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân[1]. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào họ cũng bị khấu trừ thuế TNCN mà Nhà nước còn xem xét đến hoàn cảnh gia đình của những người này trong một số trường hợp khó khăn để tạm thời chưa phải thực hiện khấu trừ thuế TNCN của họ. Để tạm thời chưa bị khấu trừ thuế TNCN, người chịu thuế phải đáp ứng các điều kiện[2]:
- Chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế nêu trên. Tức là cá nhân này chỉ làm 1 công việc và có duy nhất thu nhập từ việc đi sơn cho công ty A mang lại và mức chi trả thu nhập lớn hơn 2.000.000 đồng/lần.
- Tổng mức thu nhập của họ sau khi trừ đi gia cảnh mà chưa đủ điều kiện để nộp thuế. Tức là mặc dù mức chi trả thu nhập của thợ sơn trên đã đủ điều kiện khấu trừ thuế nhưng sau khi trừ đi mức giảm trừ gia cảnh của họ thì tổng mức thu nhập này lại thấp hơn mức 2.000.000 đồng.
- Tại thời điểm làm bản cam kết (mẫu số 02/CK- TNCN TT 92/2015/TT-BTC) để được tạm thời chưa khấu trừ thuế TNCN thì cá nhân phải ĐK thuế và được cấp MST.
Như vậy đối với hợp đồng dịch vụ thuê người sơn SPCK như ở trên khi trả tiền công trên 2 triệu đồng/1 lần chi trả hoặc cộng dồn trong tháng chi trả trên 2 triệu đồng/1người/1tháng thì công ty A phải khấu trừ 10% thuế TNCN trước khi chi trả cho người nhận dịch vụ sơn SPCK.
HĐLĐ và HĐDV là hai loại hợp đồng hoàn toàn khác nhau nhưng lại được sử dụng nhiều nhất trong doanh nghiệp. Tùy vào mục đích công việc mà doanh nghiệp lựa chọn ký kết hợp đồng sao cho phù hợp và có lợi nhất cho doanh nghiệp mình. Vừa bảo đảm được quyền lợi của NLĐ vừa giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về phân biệt hợp đồng lao động và hợp đồng dịch vụ ( khoán việc, cộng tác viên)
Nếu các bạn thấy bài viết hữu ích thì Bạn cùng chúng tôi lan tỏa tri thức cho Cộng đồng bằng cách nhấn “Chia sẻ” bài viết này.
Luật Nghiệp Thành cảm ơn các bạn đã xem, chia sẻ và mong nhận được phản hồi, góp ý bổ sung.
Biên tập: Tổng hợp.
Luật sư hướng dẫn: Luật sư Thuận.
[1] Điều 25 TT111/2013/TT-BTC
[2] Điều 25 TT111/2013/TT-BTC